Trang

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Xem ảnh, ấm lòng...

Những series ảnh sưởi ấm trái tim


Mang những chủ đề rất riêng tư, các dự án nhiếp ảnh tự phát vẫn có sức lay động tới hàng triệu người trên thế giới. Cảm động, sâu sắc, đáng yêu, bổ ích là những mỹ từ mọi người dành cho các series ảnh này.


Dưới đây là một dự án nhiếp ảnh mà mỗi chúng ta khi có cơ hội được biết đều thấy đồng cảm và muốn chia sẻ.
 
Tippi of Africa

Là người Pháp, nhưng cặp đôi nhiếp ảnh gia Sylvie Robert và Alain Degré đã tới sinh sống ở sa mạc Châu Phi để tiện tác nghiệp. Con gái bé bỏng của họ, bé Tippi Degré  đã trải qua một tuổi thơ khác lạ. Cô bé lớn lên trong khung cảnh nguyên sơ ở sa mạc và kết thân với nhiều loài động vật hoang dã. Chú voi Abu 28 tuổi, chú báo sư tử J & B, hươu cao cổ, đà điểu, cầy, cá sấu, ngựa vằn con, ếch khổng lồ và thậm chí cả rắn đều quấn quýt quanh Tippi Degré mà không phương hại tới cô bé. “Tôi không có bạn bè ở đây, vì thế, các động vật là bạn bè của tôi”, cô bé đáng yêu và rắn rỏi nói.

 
Cha mẹ của Tippi Degré đã viết sách về quá trình hòa nhập và lớn lên trong thế giới động vật hoang dã của con gái. Trong cuốn sách ảnh Tippi of Africa xuất bản năm 1998, cha mẹ của Tippi nói “Con bé tin rằng các con vật giống như mình, như bạn bè mình. Trí tưởng tượng đã giúp bé quen thân với nhiều loài khác nhau”. Rõ ràng, với việc cho con hòa nhập vào thế giới riêng, không áp đặt của cha mẹ Tippi đã cho cô bé một nền giáo dục tuyệt vời nhất. Tippi được phiêu lưu khắp nơi trên sa mạc cùng những người bạn khổng lồ, và sẽ học được cách vượt qua những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống.


Kachi 

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013

Về hòn đá lạ ở Đền Hùng

Người cho đặt đá lạ ở đền Hùng lên tiếng



(ĐVO) - ‘Việc đưa đá lên đền Thượng tại Đền Hùng là có cơ sở khoa học và không ai dám làm bậy bạ ở nơi thờ tự linh thiêng như thế. Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước và nhân dân khi làm việc này. Khi hoàn thành công việc; các lãnh đạo Trung ương, tỉnh đều đã chứng kiến và biết’.


Ông Nguyễn Tiến Khôi, nguyên Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Chủ tịch Hội sử học tỉnh Phú Thọ đã chia sẻ với báo Đất Việt xung quanh thông tin hòn đá lạ ở đền Thượng có thể là bùa yểm không tốt.
PV: - Thông tin về hòn đá lạ được đặt trên đền Thượng tại Đền Hùng đang khiến dư luận rất lo lắng, bùa yểm nhưng không rõ là gì?
Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Khi tu sửa đền Hùng năm 2009, lúc tháo dỡ toàn bộ bệ thờ trên đền Thượng, cán bộ và công nhân đã phát hiện một viên gạch lạ có in chữ Hán.
Nhiều nhà văn hóa cho rằng có thể là bùa yểm trong đó. Để phá thế yểm, Ban quản lý đã phải mời các pháp sư. Cụ thể người trực tiếp tham gia làm việc này là ông Nguyễn Minh Thông.
Một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm đã vào cuộc hội thảo nhiều lần, khẳng định viên gạch này có từ cuối thời Trần, do đạo sỹ của quân Nguyên Mông mang đến đặt.
Thời đó, phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại đền Thượng. Trên viên gạch được ghi “Đánh đổ đức sáng Vua Hùng (hiện còn lưu giữ tại bảo tàng Đền Hùng).


Theo ông Khôi, việc đặt đá được pháp sư thực hiện và có sự giới thiệu của Bộ Văn hóa
Theo ông Khôi, việc đặt đá được pháp sư thực hiện và có sự giới thiệu của Bộ Văn hóa. (Ảnh TPO)

PV: - Vậy ông có thể giới thiệu lại quy trình mà Ban quản lý đã thực hiện việc làm bùa yểm này như thế nào để cộng đồng được hiểu?

Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Ông Nguyễn Minh Thông là do Bộ Văn hóa giới thiệu, hiện nay đang là  giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng văn hóa phương Đông.
Chính vị này từ năm 2000 cũng là người đã chọn huyệt đạo xây dựng Đền thờ Mẫu Âu Cơ và sau đó là tìm huyệt đạo của đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân.
Tôi xin khẳng định rằng tất cả các đền thờ ở trên núi Hùng của Phú Thọ theo chỉ đạo của Bộ Văn hóa đều phải nhờ vị này từ khâu hạ trại đến khi hoàn thành.
Suốt thời gian qua, đất nước ta yên bình. Và chính vị này đã có báo cáo lên Bộ Văn hóa và UBND tỉnh phải làm đá để yểm ngược lại và cũng được đồng ý.
Hòn đá này đã được đặt trên đó mấy năm nay rồi.


PV: - Thế nhưng có ý kiến cho rằng hòn đá này là do ông Nguyễn Đình Khảm, Giám đốc một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam (ở Hà Nội) công đức. Do vậy cũng chưa rõ liệu nó có mang lại sự may mắn đúng như mong muốn?

Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Khi biết có việc này ông Nguyễn Đình Khảm, Giám đốc một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam đã có nhã ý công đức một hòn đá và cũng được những người có chuyên môn, trách nhiệm lựa chọn cho phù hợp với kiểu dáng cũng như chất lượng.
Do vậy không có chuyện không kiểm nghiệm ở đây.

PV: - Nhưng có ý kiến cho rằng khi cho đặt hòn đá này lên, ông đã bị kỷ luật và phải giải trình?

Ông Nguyễn Tiến Khôi: - Đó là thông tin không chính xác. Bản thân tôi còn được thưởng Huân chương lao động vì đã có công tu sửa tại Đền Hùng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Bích Ngọc (thực hiện)
;

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

Nhân dịp giỗ tổ Hùng Vương, mời đọc :

Rùa thần, trĩ trắng và chính sách đối ngoại thời Hùng Vương


Rùa thần, trĩ trắng và chính sách đối ngoại thời Hùng Vương

Đối ngoại là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước, các dân tộc khác. Mặc dù nhà nước thời Hùng Vương còn sơ khai nhưng cha ông ta đã chủ động thực hiện các đối sách ngoại giao linh hoạt: cứng rắn nhưng cũng rất mềm dẻo, thân thiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc.

 







            Trước các hành động quân sự hay đe dọa quốc gia, vua Hùng đã cương quyết chống lại. Truyền thuyết và nhiều bản thần tích cho biết thời Hùng Vương có nhiều loại giặc đã bị đánh bại như giặc Ân, giặc Ô Lư, giặc Hồ Tôn, giặc Mũi Đỏ, giặc Răng Vàng… dường như đã phản ánh một hiện thực nào đó. Cuốn “Đại Việt sử lược” cũng có đoạn chép cho thấy đôi nét về chính sách đối ngoại đó: “Xưa, Hoàng Đế dựng nên muôn nước, thấy Giao Chỉ xa xôi, ở ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được, bèn phân giới hạn ở góc tây nam… Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn thường sai sứ sang dụ, Hùng Vương chống cự lại”.

Bên cạnh việc sẵn sàng đối phó khi có ngoại xâm, các vua Hùng cũng đã có sự chủ động trong chính sách đối ngoại. Hai sự kiện lớn nhất được truyền thuyết và sử sách ghi nhận là việc Hùng Vương sai sứ sang thông hiếu với triều đại ở phương Bắc, tặng “rùa thần” và chim “bạch trĩ”. Không chỉ thư tịch cổ Việt Nam ghi nhận mà nhiều cuốn sách của Trung Quốc trải từ đời Chu, Hán đến đời Minh, Thanh đều có ghi chép, mặc dù dài ngắn và có một số điểm khác nhau đôi chút.
 

Biếu rùa thần trên mai khắc chữ khoa đẩu





Có rất nhiều sách sử Trung Quốc viết về sự kiện ngoại giao đầu tiên giữa quốc gia Nam - Bắc này. Trong bộ “Thái Bình ngự lãm” ở quyển thứ 131 dẫn lại một số sách khác về việc này như sau: “Thuật dị kí” của Nhậm Phưởng (thời Nam Bắc triều) viết: Thời Đào Đường, nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn tuổi, rộng hơn ba thước. Trên lưng có hoa văn, đều là chữ khoa đẩu, ghi lịch rùa từ thủa mới mở mang đến nay. “Thuật Đế cống nguyệt minh” của Phục Thao viết: Văn lịch rùa là chữ của người Hồ Man”.



Trong Sách “Thông giám cương mục” có đoạn chép: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ 5 (2353 TCN), có Nam di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”; sách Cương mục tiền biên cũng cho biết: “Vào đời Đào Đường thị, năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ 5, Việt Thường thị sang chầu dâng rùa thần”.

Sách “Thông chí” thì viết rõ hơn: “Đời Tào Đường, Nam di có Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa được nghìn tuổi, rộng hơn 3 thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay, vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là lịch rùa”….

Một số thư tịch, cổ sử của nước ta cũng viết về điều này, như “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn có viết: “Xứ Việt Thường Thị đem dâng rùa thần sang Trung Quốc, sau hai lần thông dịch mới hiểu được nhau. Rùa thần sống nghìn năm, vuông hơn ba thước, lưng có chữ khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai người chép lại, gọi là lịch rùa”.

Không rõ sự kiện này do vua Hùng đời thứ mấy tiến hành, nhưng điều thú vị là duy nhất có cuốn sách cho biết rõ điều đó. Trong “Tân đính Lĩnh Nam chích quái” cho hay đó là vua Hùng chi đời thứ 2 (Hùng Hiền Vương, tức Lạc Long Quân): “Thời đó có người hái củi bắt được con rùa sống đã nghìn năm, lưng rộng khoảng 3 thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, đem đến dâng vua. Vua nói rằng: Rùa vốn có hai loại, linh quy (rùa thiêng) và dâm quy (rùa dâm), tuy bề ngoài có vẻ giống nhau, nhưng chất thì khác nhau rõ ràng. Khoảng đó, nghe nói họ Đào Đường ở Trung Quốc là hiền đức, bèn sai đem dâng. Vua Nghiêu truyền sao chép chữ trên lưng rùa mà làm ra lịch rùa”.

Tặng chim trĩ trắng cho nhà Chu

Sau lần đầu tiên đi sứ Đường Nghiêu, đến thời nhà Chu sứ nước ta lại một lần nữa sang thông hiếu. Sự kiện này được ghi chép nhiều hơn với các thông tin phong phú.


Thư tịch đầu tiên nói Việt Thường thị ở phía Nam hiến chim trĩ trắngcho Chu Thành Vương được thấy ở sách “Thượng thư đại truyện”, “Trúc thư kỷ niên” và “Hiếu kinh” của Trung Quốc. Chuyện ấy được chép lại ở sách “Hậu Hán thư” và một số sách đời sau. Cuốn “Sử ký” của Tư Mã Thiên viết: “Đất Giao Châu, ở phía Nam có Việt Thường thị, qua nhiều lần thông dịch, đến hiến một con chim trĩ trắng”; một cuốn “Sử ký” khác chép: “Năm Tân Mão thứ sáu (1110 TCN) đời Thành Vương nhà Chu, họ Việt Thường thị ở bộ Giao Chỉ sai sứ dâng chim trĩ trắng. Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho 5 cỗ xe làm theo lối chỉ nam theo đường ven biển về nước, đi tròn năm mới về đến nước”. Hay như sách “Thượng Thư đại truyện” có đoạn viết: “Giao Chỉ ở phương Nam, có nước Việt Thường… Họ Việt Thường đến dâng chim trĩ trắng”.

Ngoài ra các sách như “Luận hành”, “Thái Bình ngự lãm”, “Hiếu kinh”, “Hậu Hán Thư”, “Thủy kinh chú”, “Lâm Ấp ký”… đều cho biết về điều này.

Sách sử và thần tích Việt Nam cũng nhiều lần đề cập tới việc vua Hùng cho người mang trĩ trắng đến thông hiếu. Tác phẩm sử học cổ nhất còn giữ đến nay là “Đại Việt sử lược” viết: “Đến đời Thành Vương nhà Chu, Việt Thường Thị mới đem dâng chim bạch trĩ…”. Sách “An Nam chí lược” viết vào thời Trần có đoạn: “Đời Chu Thành Vương, họ Việt Thường qua chín lần thông ngôn, tới hiến mà nói rằng: Trời không có gió bão, không mưa dầm, ngoài biển không nổi sóng dữ đã ba năm nay, có lẽ ở Trung Quốc có đấng thánh nhân trị vì, sao chẳng tới chầu? Lúc bấy giờ, Chu Công đặt bài ca, đánh đàn thuật chuyện họ Việt Thường tới chầu: Ôi ôi! vui thay, cảnh tượng thái bình không phải nhờ sức của Đán (tên của Chu Công) mà là nhờ đức của vua VănVương! Nước Việt Thường, tức đất Cửu Châu, ở phía nam Giao Chỉ”. Sách “Việt sử tiêu án” của Ngô Thì Sĩ chép: “Nước Việt ta khi mới vào cống nhà Chu, tự xưng là họ Việt Thường, dâng con bạch trĩ, 9 lần đổi trạm mới đến được, ông Chu Công úy lạo cho về, cho 5 cỗ xe đặt kim chỉ nam để chỉ lối về”.

Các cuốn sử khác của nước ta như “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Ngự phê thông giám tập lãm”, “Thiếu vi thông giám”, “Khâm định Việt sử tiền biên”… cũng ghi chép việc này.

Sách sử thì không cho biết chính xác vua Hùng chi đời thứ mấy cử sứ đi sang nhà Chu, Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thời Thành Vương nhà Chu, nước Việt ta mới sang thăm nhà Chu (không rõ là đời Hùng vương thứ mấy) xưng là Việt Thường thị dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: Nước nào chính lệnh không đến thì người quân tử không bắt họ thần phục. Sai làm xe chỉ nam đưa về nước”.

Tuy nhiên trong cuốn thần phả thôn Nông Xá (tên cũ là Nguyễn Xá), huyện An Dương, TP Hải Phòng thì thân thế, tên tuổi của sứ Việt Thường thị là hai anh em ông Nguyễn Hưng (tự là Quảng Tế) và Nguyễn Hiền (tự là Khả Liễm) người thôn này đã đi sứ nhà Chu dâng chim trĩ trắng vào năm Tân Mão (1110 TCN) theo lệnh của vua Hùng Định Vương (tức vua Hùng thứ 9): “Hùng Định Vương biết tiếng hai anh em bèn triệu về triều phong cho chức Lạc tướng rồi sai hai ông làm sứ thần đem chim bạch trĩ biếu vua Thành Vương nhà Chu. Hai anh em vâng mệnh, không quản gian nan lên đường. Khi dâng xong chim bạch trĩ, Chu Công sai đóng xe chỉ nam để đưa về nước”... Khi trở về, vua Hùng ghi công và phong chức cho hai anh em ông Nguyễn Hưng, Nguyễn Hiền coi giữ bộ Dương Tuyền (một trong 15 bộ thời Hùng Vương, nay thuộc địa phận Hải Dương, Hải Phòng).

Trên đây là một số ghi chép của thư tịch cổ về hai sự kiện ngoại giao đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, với phương châm mềm dẻo, hòa bình; đồng thời thể hiện sự chủ động tích cực của cha ông ta đối với lân bang. Điều này đã đặt nền móng đầu tiên cho nền ngoại giao Việt Nam với những nét đặc trưng khác biệt.

 
Lê Thái Dũng_baotanglichsu.vn


                  Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương
                                          Chữ Việt cổ trên trống đồng ở Đền Hùng ( ST sưu tầm )
                  

                             


Biểu tượng con rùa đá khắc chữ Khoa Đẩu của vua Hùng tặng vua Nghiêu năm 2345 TCN.
                                                                           (ST sưu tầm)
                                            


Rua than, tri trang va chinh sach doi ngoai thoi Hung Vuong
Rùa vàng và chim trĩ trắng ( ảnh minh họa )





Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

THÌ THẦM THÁNG BA

ST: Hôm trước ST có bài Dở dang Tháng Ba để tiễn biệt. Mà sao nay gõ "Hoa Sim Tím" vào "ông gù", cứ thấy hiện bài Thì thầm Tháng Ba! Chắc là "gù" thích Thì thầm hơn ... Ừ nhỉ, giữa tháng tư rồi mà trời vẫn âm u tháng ba! Mưa ngâu...Thôi, post bài năm ngoái lên...xem cảm xúc khác nhau thế nào! Mà khác thật...

 Đọc lại...Thì thầm vậy!

 

 



Thì thầm tháng ba


Ồ, tháng ba rồi nhỉ
Xin níu guồng thời gian
dệt lụa trời không nghỉ
Xuân chưa về xuân đã vội ra đi
Mây xanh xao mây muốn nói điều gì?

Tháng ba nào cũng vậy
Hoa bưởi nở bung
Trắng sao trắng đến tận cùng
Thơm sao thơm đến mê muội
Nồng nàn, mát rượi...hương

Tháng ba có gì đẹp hơn
Vườn anh đào mộng mị?
Ríu rit gọi nhau
Nhoẻn nụ cười hoan hỉ
Cánh rụng m sương 
Như tuyết bay phủ khắp miệt vườn





Tháng ba nào cũng vây
Em nghĩ về anh, dạo ấy
... đến  thương
Hai ngây thơ nối bước tới trường
Chân em luýnh quýnh
Chân anh dồn dập
Em vấp ngã
Anh ngả theo...
Chụm đầu nhau dưới mái trường nghèo
nhà tranh, sân đất...

Tháng ba mưa lất phất
Gió lật phật dặng me 
Mình lạc nhau góc khuất cuối đường về
Lòng ủ ê...
Biết bao giờ gặp lại?


Thì thầm tháng ba
Thì thầm thời con gái
Hoa bưởi ngẩn ngơ
Hoa bưởi đợi chờ...





3-2012




Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013

Ngắm hai công chúa của Lee

Bộ ảnh hai cô con gái "độc nhất vô nhị" gây sốt trên mạng!


Jason Lee, một thợ chụp ảnh cưới ở California (Mỹ) đang được nhiều người biết đến và "đắt sô" hơn sau khi đăng tải hàng loạt bức ảnh ngộ nghĩnh đầy sáng tạo của hai cô con gái nhỏ do chính anh chụp lên mạng.

  

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

ÁNH MẮT EM

ST : ST đã xúc đng biết bao khi xem bức ảnh dưới đây trong entry của anh Cala . Rồi lại đọc bài của chị Ngọc Trâm vông cụ ngã ngửa giữa đưng.  Trong bài về "Sự kỳ diệu của nước" của chj LTH ST  đặc biệt  bất ngờ trước những KL đầy tính nhân văn rút ra từ nghiên cứu tưởng như khô khan của nhà khoa học người Nhật Bản ấy. Chẳng hạn: 
" ... tiến sĩ  Emoto đang cố gắng tìm ra 10% số người trên Trái đất còn chính niệm ( ý niệm chân chính). Sẽ có hòa bình trên Trái đất chừng nào còn có 10% những người đó.” hoặc
" Thực sự là không có gì quan trọng hơn tình yêu và lòng biết ơn trên thế giới này."
 ST đã viết bài sau.  Mời bạn đọc chia sẻ những ý nghĩ còn lộn xn của ST nhé!

 

  photo-13-jpg-1356047568-1356047671_500x0
( Ảnh từ blog của anh Calathau)





 Lặng nhìn đôi mắt em
 ...Mà chẳng nói nên lời
  Thầm gọi ánh mắt đen
"Ánh mắt -Tình người"


Em là ai...con ai?
Hỡi thiên thần bé nhỏ
Giữa  đớn đau thống khổ
 Chăm ẵm giọt đời rơi...
 

Xin cúi đầu trước em
trước Ánh mắt-Tình người

   Nghẹn ngào xót thương  em

 Tuổi đi học đi chơi...



  Bao người chầm chậm qua

Xe c vùn vụt qua
Có ai người dừng lại
Bàn tay nào đưa ra...?

  Nếu trong từng chân bước

một tình yêu mặn mà
Nếu tình yêu lan tỏa
thế gian bừng sắc hoa!  


Xin đừng bỏ mặc , xin đừng đi qua!


 

( Ảnh do cụ TB FIOHAN sưu tầm trên mạng)



  Trong thế giới này, chúng ta xót xa không vì lời nói và hành động của kẻ xấu, mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của những người tốt. (M. L. King)