Trang

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

CHÚC MỪNG NĂM MỚI



    
              image

 
Mừng xuân Quý Tỵ





                          

Chúc các thầy cô, anh chị, bạn bè gần xa:

Đong thật đầy hạnh phúc. 
Gói thật trọn lộc tài. 
Giữ cho mãi an khang. 
Thắt cho chặt phú quý. 
 Chúc cùng nhau như ý. 
Hứng tròn ch tào khang. 
Chúc năm mới bình an.  
Muôn phần thêm  sung túc.


image






 XUM HỌP CÙNG CON CHÁU






ẤM ÁP BẾP LỬA HỒNG





LÒNG THANH THẢN MÊNH MÔNG





                                                ĐÓN CHÀO XUÂN QÚY TỴ








Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

Phong thủy tết Quý Tỵ





Mách giúp phong thủy: Tục-Lễ ngày tết/ Tuổi xông đất, xông nhà/ Ngày và hướng xuất hành/ Cầu xuất thế Quí Tỵ/ Và Quý Tỵ hung cát...



Xin coi Mách giúp này như một tham khảo.
Nhà phong thủy học: Nguyễn nguyên Bảy 


TỤC/ LỄ NGÀY TẾT
1. Dọn bát nhang, bỏ chân nhang cũ, thay tro nhang mới, nên làm ngày 23 Tháng Chạp trước lễ cúng đưa ông Táo về trời.
2. Cúng đưa ông Táo về trời. Lễ vật tùy tâm. Tập tục truyền thống, gồm: Mâm mặn ( một con gà hoặc một miếng thịt heo (vai) luộc, mâm ngũ quả ( một loại 5 quả hoặc 5 loại mỗi loại một quả, tùy tục lễ vùng miền, miền Bắc chuộng cam, chuối, miền Nam chuộng dừa, đủ, xoài, sung...), hoa 5 hoặc 9 bông nhiều mầu. Vàng mã không câu nệ. Cúng lúc 12 giời trưa, ngày 23 Tháng Chạp.
3. Cúng Tất niên và Gia tiên; Truyền thống cúng trưa 30 tết, hai mâm, một mâm cúng Thổ Thần Đất Đai, trước cửa nhà trong khuôn viên nhà, một mâm cúng mời Gia Tiên về ăn tết, trước bàn thơ Gia Tiên. Lễ vật tùy tâm, miễn lòng thành kính, mâm mặn hay mâm hoa trái đều được, mỗi mâm hai chén nước, hai ngọn đèn nến.
4. Cúng Giao thừa, mâm lễ bầy trước giao thừa, đến thời khắc giao thừa mới nhang hương cầu nguyện. Lễ vật tùy tâm mặn nhạt, nhưng nên có: 1 đĩa gạo, 1 đĩa muối, một ly rượu trắng, 1 bát nước, 1 ngọn đèn dầu. Lời khấn cầu tự tâm, không câu nệ bài khấn. Sau lễ, trộn gạo, muối và rượu rắc trước cửa nhà.
5. Cúng Gia Tiên; Cơm cúng, bữa sáng vào các ngày mồng 1 và mồng 2 Tết.
6. Cúng hết Tết (hóa vàng) cúng ngày 3 hoặc 4 hoặc mồng 7. Cúng mặn, hoa trái.
CHỌN TUỔI XÔNG ĐẤT NGÀY TẾT   

1. Tự tin thì mình xông đất cho chính căn nhà cư ngụ của mình là đơn giản nhất, tốt nhất.
2. Trường hợp chọn tuổi xông đất : Nguyên tắc chỉ dụng tuổi người chủ trạch / Chọn thế nhị hợp hoặc tam hợp tuổi nhờ xông đất. Cụ thể như sau:

+ Người tuổi Tí, nên chon người Sửu, Thìn, Thân.
+ Người tuổi Sửu nên chọn người Tí, Tỵ, Dậu
+ Người tuổi Dần nên chọn người Hợi, Ngọ, Tuất
+ Người tuổi Mão nên chọn người Tuất, Hợi, Mùi.
+ Người tuổi Thìn nên chọn người Dậu, Thân, Tí
+ Người tuổi Tỵ nên cọn người Thân, Dậu, Sửu
+ Người tuổi Ngọ nên chọn người Mùi, Dần, Tuất
+ Người tuổi Thân nên chọn người Tỵ, Thìn, Tí
+ Người tuổi Dậu nên chọn người Thìn, Tỵ, Sửu
+ Người tuổi Tuất nên chọn người Mão, Dần, Ngọ
+ Người tuổi Hợi nên chọn người Dần, Mão, Mùi.
CHỌN NGÀY & HƯỚNG XUẤT HÀNH
Theo Ma Trận Hậu Thiên năm Quý Tỵ:
+ Ngày Mùng Một ứng với việc cầu Sự nghiệp, cầu Quan Lộc, hướng xuất hành chính Bắc
+ Ngày Mùng Hai ứng việc cầu Hôn nhân, Cưới gả, Tình yêu, hướng xuất hành Tây Nam
+ Ngày Mùng Ba ứng việc cầu Gia Trạch khang vượng, hướng xuất hành chính Đông
+ Ngày Mùng Bốn ứng việc cầu Tài lộc, tiền bạc, hướng xuất hành Đông Nam
+ Ngày Mùng Năm ứng việc đi chùa, nhà thơ thành thản hỷ xả, cầu nguyện đưc tự tin, mọi hướng đều cát lợi
+ Ngày Mùng Sáu ứng việc kiến quý, cầu phúc, cầu may mắn, hướng xuất hành Tây Bắc
+ Ngày Mùng Bảy ứng việc cầu an lành cho con cháu, xán lạn cho tương lai, hướng xuất hành chính Tây
+ Ngày Mùng Tám ứng việc cầu thi cử, thăng tiến, học hành và công việc ước nguyện hoàn thành, hướng xuất hành Đông Bắc
+ Ngày Mùng Chín ứng với việc cầu Danh vọng cho sự nghiệp, tiền bạc ấm thân, sang giầu, hướng xuất hành chính Nam.
Chỉ nên chọn một nguyện cầu để chọn ngày và hướng xuất hành, nhằm dốc sức, bền chí kích hoạt cho nguyện cầu thành tựu.
Năm nay (Quý Tỵ) cư phương Thìn Tốn Tỵ, nên hướng Đông Nam, con gái trưởng, được coi là hướng và nhân cát vượng nhất, nên tham khảo xem xét.
CẤU XUẤT THẾ VỚI QUÝ TỴ

1. Chuẫn bị vật cầu: Một bó hoa (7 bông) mầu sắc tùy thích, tươi khỏe, bền sức làm biểu tượng Mộc dương nguyện cầu để hưởng ân của can thủy Quí mà sinh vượng cho hỏa Tỵ. Một chai nước lã, sạch từ 0,5- 1 lít. Hai con cá chép trắng khỏe hoặc 1/2 kg cá chép nhỏ khỏe. 
2. Hoa và nước để sẵn ngoãi căn nhà cư ngụ. Cá trong bịch ni lông bơm ôxy, đặt cạnh mâm cúng Giao thừa. Sau khi cúng giao thừa đem cá thả xuống sông, hồ an toàn.
3. Sau khi thả cá xong, tự về nhà xông đất, mang theo hoa và nước từ ngoài vào nhà. Năm nay Trường Lưu Thủy, nhưng là rắn nước, nên tuyệt đối không vẩy nước trong nhà, mà lấy một bình hoa, pha lê hay thủy tinh càng tốt, đổ chai nước vào bình và cắm 7 bông hoa đã chuẩn bị vào bình. Chăm sóc hoa tươi tốt ít nhất cũng tới sau ngày Hóa Vàng., dài hơn càng lợi lạc. Đây là tục xuất thế Vọng Thủy Cầu Long.

Mừng chúc Năm Mới an lành, sum họp.
Xin coi Mách giúp này như một tham khảo.

NGUYỆN


QUÝ TỴ HUNG CÁT


Thưa bạn đọc,
Kêu đòi thời gian trôi nhanh hơn hay thong thả từ từ là điều không thể, thời gian vận động theo nghiêm luật bất khả hối lộ, tham nhũng, vì thế xin đừng thúc hối thời gian, bây giờ đang đầu tháng (mười) Một/ Nhâm Thìn, còn non hai tháng nữa mới sang xuân Quý Ty. Cái vất vả, khốn khó, bức xúc của năm Thìn còn đó, còn phải gánh, gánh cố cho qua, than thở buồn giận thêm làm gì, Càn Khôn đã biết thấy tất cả. Hãy mở lòng hướng về Quý Tỵ mà hy vọng, mà tu thân tranh đấu, nguyện cầu, bởi sao đi nữa Quý Tỵ cũng còn ở thời tương lai, một tương lai gần đang trôi về ba ngày Tết với đào mai, bánh chưng, dưa hành, với sum vầy gia tộc. Nhân thế, mượn danh hành nghề dịch học, tôi viết lá thư này, như hàng năm vẫn viết, trình bầy theo sở đoán của mình, thay trả lời riêng, về các điều gọi chung là Quý Tỵ Hung Cát, để bạn đọc tham khảo, dự đoán giải trí, vui dài trong những ngày nghỉ Tết.



Về căn bản, can chi, hành quẻ của năm Quý Tỵ không khác nhiều so với năm Nhâm Thìn, năm 2012 vượng dương, thì năm 2013 vượng âm, hung cát của năm Thìn là hệ quả hung cát của năm Tỵ, nên cần tự lập giảng theo hướng dẫn dự đoán dưới đây, tránh sơ lược tùy tiện bỏ qua các yếu tố lập thành.
1. Dự đoán theo Can, Chi

Quý trong Thập Can, đứng ngôi thứ 10, phụ trách việc chuyển động, giao tiếp, hành thuộc thủy âm.
Tỵ trong Thập Nhị Chi, đứng ngôi số 6, thuộc hỏa âm, giao cho Rắn tròn, trơn, giỏi bò trườn, bơi lặn, cai quản.

Can Quí thuộc thủy. Chi Tỵ thuộc hỏa, Can Chi gặp thế tương khắc, dụng Chi làm đối tượng dự đoán thì khắc này là khắc nhập thủy hỏa, kinh dịch xếp bậc 4. Khắc nhập bậc 4 được 6 chữ Vất Vả, Tranh Đấu, Thành Tựu. Đối chứng với năm 2012, là năm tổng kết được xem là năm nhiều hung xấu (Nhâm Thìn, khắc xuất thổ thủy, bậc 2), sẽ thấy rõ hơn chân dung Quý Tỵ cam go, biến động, thách thức bội phần.
Theo Can Chi tuổi, cụ thể như sau: Năm Quí Tỵ, người có hàng Can, thuộc mộc (Giáp,Ất), hàng chi thuộc thổ (Thìn, Tuất, Sửu Mùi) được thế sinh nhập, bậc 1, cát lợi. Người có hàng Can, thuộc thổ (Mậu, Kỷ), hàng chi thuộc thủy (Hợi, Tí ) được thế khắc xuất, bậc 2, tranh đấu mà cát lợi. Người có hàng Can, thuộc thủy ( Nhâm, Quí), hàng chi thuộc hỏa (Tỵ, Ngọ) được thế bình hòa, mọi việc điều tiết cân bằng, ung dung tự tại mà cát vượng. Người có hàng Can thuộc kim ( Canh, Tân) và hàng Chi thuộc mộc (Dần, Mão) được thế sinh xuất, bậc 3, phải hư hao, vất vả. Người có hàng Can thuộc hỏa (Bính, Đinh) và hàng chi thuộc kim (Thân, Dậu) được thế khắc nhập, bậc 4, khó khăn, hung họa.

Ví dụ đối chứng bậc 1,

Năm Quý Tỵ đối chứng với tuổi Giáp Thìn : Can Quí đối chứng với can Giáp là cách thủy sinh mộc, bậc 1, gọi là Thiên Lợi. Chi Tỵ đối chứng với chi Thìn là cách hỏa sinh thổ, sinh nhập, bậc 1, gọi là Địa Lợi. Dự đoán: Tuổi Giáp Thìn, năm Quý Tỵ được cách Thiên Lợi/ Địa Lợi nhiều may mắn, tốt đẹp.

Ví dụ đối chứng bậc 2,
Năm Quý Tỵ đối chứng với năm Kỷ Hợi: Can Quý đối chứng với can Kỷ là cách thổ khắc thủy, khắc xuất, bậc 2, gọi là Thiên Lợi. Chi Tỵ đối chứng với chi Hợi là cách thủy khắc hỏa , khắc xuất, bậc 2, gọi là Địa Lợi. Dự đoán: Tuổi Kỷ Hợi, năm Quý Tỵ được cách Thiên Lợi/ Địa Lợi bền bỉ tranh đấu mà được cát vượng.

Ví dụ đối chứng bậc 3,
Năm Quý Tỵ đối chứng với năm Tân Mão : Can Quý đối chứng với can Tân là cách kim sinh thủy, bậc 3, gọi là Thiên Hao. Chi Tỵ đối chứng với chi Mão là cách mộc sinh hỏa, sinh xuất, là cách Địa Hao. Dự đoán: Tuổi Tân Mão, năm Quý Tỵ được cách Thiên Hao/ Địa Hao, tiền hung, hậu cát, cẩn trọng sức khỏe.

Ví dụ đối chứng bậc 4,
Năm Quý Tỵ đối chứng với năm Đinh Dậu : Can Quý đối chứng với can Đinh được cách thủy khắc hỏa, khắc nhập, bậc 4, gọi là Thiên Hại. Chi Tỵ đối chứng với chi Dậu là cách hỏa khắc kim, khắc nhập, bậc 4, gọi là Địa Hại. Dự đoán: Người Đinh Dậu, năm Quý Tỵ được cách Thiên Hại/ Địa Hại, người  lớn tuổi (sinh năm 1957), đặc biệt nữ nhân nên xem trọng việc giữ gìn sức khỏe, tu thân tránh nạn ách.

Ví dụ đối chứng Thiên Lợi/ Địa Hao.

Năm Quý Tỵ đối chứng với năm Ất Mão: Can Quý đới chứng với can Ất được cách thủy sinh mộc, sinh nhập, bậc 1, gọi là Thiên Lợi. Chi Tỵ đối chứng với với chi Mão là cách mộc sinh hỏa, sinh xuất, gọi là Địa Hao. Dự đoán: Người Ất Mão (1975), năm Quý Tỵ được cách Thiên Lợi/ Địa Hao, là được thế lợi lạc, tranh đấu mà được thụ hưởng, tuy nhiên phải biết tu thân tiết chế tham lam, ích kỷ, vì dư thủy thì mộc úng. Chữ tham lam ích kỷ tàng ẩn trong chữ Thiên Lợi. Chữ tranh đấu tàng ẩn trong chữ Địa Hao

Ví dụ đối chứng Thiên Hao/ Địa Lợi.

Năm Quý Tỵ đối chứng với năm Canh Thìn: Can Quý đối chứng với can Canh được cách kim sinh thủy, sinh xuất, bậc 3, gọi là Thiên Hao. Chi Tỵ đối chứng với chi Thìn được cách Hỏa sinh Thổ, sinh nhập, bậc 1, gọi là Địa Lợi. Dự đoán: Người Canh Thìn (1940) năm Quý Tỵ được cách Thiên Hao/ Địa Lợi, là được thế nương theo môi trường, hoàn cảnh mà ứng xử, mà hành động tất được sức khỏe, tăng tuổi trời. Nên xem trọng và thụ hưởng Địa Lợi, tu thân an nhiên tự tại, tranh xa thị phi, tham vọng, tất qua mọi nạn ách, hỷ xả mà lợi lạc tinh thần, hưởng phúc lộc con cháu.

Thiên Bình/ Địa Lợi:

Can Bình hòa/ Chi Khắc xuất: Nhâm Tý, Quý Hợi. Trời đất mưa nắng thuận hòa, không họa tai tật ách, chớ than vãn yếm thế. Địa lợi ở đây là thế khắc xuất bậc hai, tất nhiên không bằng thế sinh nhập, bậc nhất. Mọi thành tựu đều do nội lực tu thân mà nên. Nhấn mạnh ý nghiã tu thân tranh đều mà cát vượng.

Thiên Bình/ Địa Lợi:

Can Bình hòa, Chi Sinh nhập: Quý Sửu, Quý Mùi, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất. Không nạn ách. Lợi việc cầu quan, cầu tài. Cầu được ước thấy. Người Quý Sửu (1973) lợi lạc hơn cả, Tang đố mộc gặp nước nhuần mà tươi tốt. Người Quý Mùi mang mang một chút u buồn, nên tránh. Người Nhâm Thìn vượt qua được vất và của năm trước, cơ may trước mặt. Những người gặp cách này tu thân đức tin mà cát vượng.

Thiên Hao/ Địa Lợi:

Can Sinh xuất, Chi Sinh nhập: Tân sửu, Tân Mùi, Canh Tuất, Canh Thìn. Nên theo hoàn cảnh mà tương thích. Thiên Hao hàm đức xấu, phải ganh đua cạnh tranh, hối lộ, nịnh hót. Nên biết điểm dừng và nên biết thời đề hành xử thế hao tán này. Dù sao, địa lợi vẫn là điều người mong cầu, thế sinh nhập thật tốt đẹp. Vì vậy, cần trọng,tu thân đạo đức, xa tránh vùng thị phi.

Thiên Hao/ Địa Bình:

Can Sinh xuất, Chi Bình: Tân Tị , Canh Ngọ. Người Tân Tỵ/ Canh Ngọ chỉ nên cầu sức khỏe tuổi trời. Nên sống phong cách xuất thế lâng lâng mà đến, lâng lâng mà đi, hỷ xả tất cả m ới mong cát lợi.

Thiên Hao/ Địa Hại:
Can Sinh xuất, Chi Khắc nhập: Canh Thân, Tân Dậu. Cố gắng tránh bệnh tật, họa ách. Người Thân nên cẩn trọng tháng Dần, người Dậu nên cẩn trọng tháng Mão. Người gặp

Thiên Hao/ Địa Lợi:

Can Sinh xuất, Chi Khắc xuất: Canh Tý, Tân Hợi. Thuận theo ý Trời, hoan hỷ tiếp nhận cơ may, xun xoe cung phụng cơ may, không nên sơ hao tổn mà tiếc công tiếc sức. Hao này là hao cho trời, hao cho cơ may, vận cát. Thế địa lợi là thế thụ hưởng chắc chắn cát vượng tài, quan. Người Tân Hợi (1971) tin vui đến sớm, nhưng cũng phải hết mùa xuân mới tựu. Người Canh Tý (1960) nhất là mệnh nữ, thoát hiểm, thoát khó năm rồi, nên mừng dù phải làm lại từ đâu, nhưng đây là năm khởi mọi tốt đẹp.

Thiên Lợi/ Địa Hại:

Can Khắc xuất, Chi Khắc nhập: Mậu Thân, Kỷ Dậu. Nhiều cơ may, nhưng đón giữ chẳng được bao. Cẩn trọng trong quan hệ trên dưới, phụ tử, phu phụ, bằng hữu nhiều cắng đắng, bức xúc, thận trọng trước lừa gạt phỉnh phờ. Cẩn trọng sức khỏe, họa ách tuổi trời. Người Kỷ Dậu tượng con gà đất, nên chuyên cần tìm bới mà sống. Người Mậu Thân nên tránh deo kéo, cung tên.

2. Dự đoán theo ngũ hành

Năm Quý Tỵ, hành Trường Lưu Thủy (dòng chảy dài). Cần hiểu và dụng cho được ba ý nghĩ tàng ẩn của Trương Lưu Thủy, dưới đây:
+ Thủy lưu là thủy động, chảy, vận động, tác động, giao tiếp, kết nối.
+ Không như các hành thủy khác, Trường Lưu Thủy không rõ cội nguồn xuất xứ. Gọi gáo nước đổ trên mặt sân hay gọi dòng sông là dòng chảy dài đều không sai, vấn đề là dòng chảy ấy tương quan thế nào trong môi trường chảy. Điều này rất quan trọng để dụng cho thuận lý. Gáo nước vừa đủ tưới cho một cây, nhưng không đủ cho một rừng cây, dòng sông đủ nước tưới cho một rừng cây nhưng quá dư đối với một cây. Thủy vừa đủ thì mộc tốt, thủy dư thì hại mộc. Vì vậy, mọi sự hay việc hay người muốn dự đoán phải tìm nguồn cội, mới có giải pháp dịch biến.
+ Trường Lưu Thủy duy nhất chỉ khắc kỵ Thiên Thượng Hỏa (lửa nắng), gọi là phản khắc, nắng (hỏa) chẳng những không bị Trường Lưu Thủy khắc tắt, mà nắng còn làm cho mọi dòng chảy bốc hơi.
Thế nên, Mệnh thủy năm nay gặp thủy vận động mà cát mà tụ hội. Mệnh thổ khống chế được thủy cường, tuy nhiên không nên thái quá mà thủy bị lấp. Mệnh hòa gặp Trường Lưu Thủy không cần vận động hết nội lực chống đỡ, mà nên chọn cách làm cho thủy đẹp để nương theo mà lợi lạc, ví như thắp ngọn nến, gầy một bếp lửa hồng bên dòng chảy, cho dòng chảy lung linh trong nắng sớm hay dưới trăng sao. Mệnh mộc chớ quá hoan hỉ thủy mà tham, bởi thủy cường thì mộc úng. Mệnh kim nên an nhiên tự tại, lượng sức mà dưỡng thủy, bởi kim nặng tất thủy chìm, nên coi việc từ thiện, việc nhân nghĩa làm trọng.

3. Dự đoán theo Quẻ lệnh

La Kinh 24 phương vị, Can Quí trong nhóm phương vị Nhâm-Tí-Quí thuộc Khảm Thủy , Chi Tỵ trong nhóm phương vị Thìn-Tốn-Tỵ thuộc Tốn phong mộc. Nên thiết lập được quẻ lệnh niên Thủy trên/ Phong dưới là quẻ Tỉnh.
Nội dung quẻ Thủy/ Phong Tỉnh
Kinh dịch 384 quẻ, duy nhất một quẻ được dụng biến dự đoán đó là quẻ Phong trên/ Thủy dưới là quẻ Hoán. Nghĩa rằng: phàm cái gì liên quan tới gió (phong) và nước (thủy) thì đều nên thay đổi, hoán chuyển, sắp xếp, định vị lại. Xét thế quẻ Hoán, chỉ duy nhất một giải pháp dịch biến từ Phong trên/ Thủy dưới thành Thủy trên/ Phong dưới là quẻ Tỉnh. Tỉnh là cái giếng. Bản chất của Giếng là: Uống mãi không cạn/ Vơi lại đầy/ Đầy không tràn. Ý dịch sâu xa là tu thân, sửa đổi, hoán chuyển để biến cái hung xấu thành cát lợi mà hưởng phúc dầy của giếng.
Quẻ lệnh năm nay, Quý Tỵ là quẻ Thủy/ Phong Tỉnh ( giếng). Bản chất của cát lợi là tu thân làm sao để giếng nước trong sạch, dùng được, giếng cần luôn được chăm sóc nạo vét bùn đất và cấm kỵ việc xả vật thải, uế độc vào giếng, và nữa, giếng là của chung, dùng cho nhiều người, vì vậy bản thân mỗi người cần tiết chế đời sống vị kỷ, nên hòa hợp cộng đồng và sống vị tha.
Hào 1: Tương ứng với hai tháng Giêng và Hai. Lời hào: Giếng nhiều bùn đất, nước bẩn, không ăn được, là cái giếng cũ (hoang) không có chim. Đây là hào bất lợi, thậm chí xấu hãm với việc cầu tài, cầu quan. Cát lợi cho việc vận động nội lực nghĩ và hành cho các việc thuộc khu vực sinh, dưỡng, tự trọng, việc lập chương trình, kế hoạch, dự án, việc đường dài, việc học tập, nghiên cứu, du lịch, dưỡng sức, phòng chữa bệnh. Nhấn mạnh: Đặc biệt ích lợi cho người Giáp Ất, và  Thìn, Tuất, Sửu, Mùi trong việc tu thân việc đức, việc từ thiện. Đặc biệt cẩn trọng với người cao tuổi mắc các chứng bệnh đường huyết, đường tiêu hóa trước nguy cơ nạn ách cạn tắc.

Hào 2: Tương ứng với hai tháng Ba và Tư. Lời hào: Mạch yếu, giếng cạn, ếch nhái vầy bẩn, như chum vại đã nứt, đã rò chảy. Lời hào hàm nghĩa, cần xem lại cấp kỳ, giếng còn mạch ngầm hay đã cạn và việc nạo vét bùn đất, sửa sang lại giếng đã đúng chưa, thật lòng chưa, ý nói định hướng công việc, sự nghiệp.
Hào 2: Vất vả cho người Canh, Tân, Thân, Dậu lâm cảnh thất tài, hư hao. Khó khăn với người Bính, Đinh, kinh doanh thua lỗ, hao tán, bệnh hoạn, lao lý. Vì vậy, nên xem xét kiêng tránh hùn hạp, khuyếch trương, vay mượn, thế chấp, mạo hiểm. Phải nên kiên nhẫn đón định thời cơ.
Hào 2: Với người Mậu, Kỷ chế hóa được hung họa, hao tán không đáng kể, có lợi lộc nhỏ.
Các người khác không nhắc tới, được thế an nhiên tự tại, nội lực tranh đấu càng lớn thì quan lộc, tài lộc càng vượng.
Hào 3: Tương ứng với hai tháng Năm và Sáu. Hào từ tàng ẩn hai nghĩa. Nghĩa hung, đã có nước giếng trong mà chẳng thể múc lên ăn, lòng ngậm ngùi. Nghĩa cát, gặp người quân tử, nước giếng múc lên cùng hưởng phúc.
Người Giáp Ất, Tí, Hợi, ứng xử khôn khéo, giao tiếp tốt, quan hệ rộng nhiều cơ may kiến quí, tất vượng quan lộc, tài lộc. Học chữ nhẫn, sống hỉ xả, không quá tự tôn tự đại ắt cát vượng như muốn. Ngược lại, những việc làm đáng cảm xấu hổ, vô liêm sỉ, thiếu tự trọng tất phải gánh chịu nhiều bất mãn.
Người Canh, Tân, Thân, Dậu gặp thời hào này nhiều ưu tư, phiền muộn trong lòng. Luôn sống trong tâm trạng không được chú ý, không được trọng dụng. Chẳng những quan lộc, tài lộc không tựu, mà còn hư hao, đau ốm bệnh tật. Thậm chí, vướng mắc thị phi, lao lí.
Hào 4: Tương ứng với hai tháng Bảy và Tám. Hào từ tàng ẩn ý, giếng đã được nạo vét bùn đất sạch sẽ, đã xây bờ, gầu thùng đã sẵn sàng múc nước lên dùng. Bối cảnh đã thuận lợi, hào tốt
Kéo nước lên dùng, trường hợp dây gầu đứt, gầu thủng, vỡ hay tâm xác yếu ớt không kéo nổi gầu nước lên thành giếng, thì hung họa, thất bại ấy chỉ nên tự trách mình.
Người theo đường học hành thi cử, cơ may học giỏi đỗ đạt cao. Người theo đường quan lộc tất được sủng ái, cất nhắc mà thành tựu, người theo đường kinh doanh tất hân hoan tài lộc, thuận thảo hùn hạp, khuyếch trương. Buôn bán đường xa được hanh thông, tiếp rước. Thảo dân cần cù chăm chỉ, lấy việc cơm no áo lành là hạnh phúc, tất cỏ thể khai trương, động thổ, kiến tạo nhà cửa, giáo dục con cháu mà được như nguyện. Tóm lại, mở lòng, mở tay cầu việc hỉ, việc lộc đều rộng đường, nhiều cơ hội và luôn có quí nhân giúp sức.
Hào 5: Đây là hào tốt nhất của quẻ Thủy/ Phong Tỉnh. Tương ứng với hai tháng Chín và Mười. Hào từ nghĩa rằng: Nước giếng trong lành, nguồn mạch phong phú, ăn uống rất tốt. Đây là thời kỳ tốt đẹp nhất trong năm. Người người, nhà nhà đều nên tu thân cố gắng làm những việc nhân, việc thiện đức, việc muốn mà không gây hại cho người khác, cho cộng đồng, tất thẩy đều thành tựu. Hung xấu của thời hào này chỉ thuộc về những việc làm càn bậy, tham nhũng, lường gạt, dối trá. Đó là quy luật của nhân quả.
Hào 6: Tương ứng với hai tháng Mười Một và Mười Hai. Trong số 384 quẻ dịch, phần lớn hào 6 đều là hào kết quẻ, hào 6 ví như người đời, khởi từ trẻ, nay đã già, bị coi như hết thời, lại yếu bệnh và chỉ nên an nhàn thụ hưởng đức hiếu nghĩa của con cháu. Tuy nhiên, Quẻ Tỉnh lại có hào 6 rất tốt đẹp. Đó chính là ý nghĩa của việc thụ hưởng nước giếng trong lành như lý của quẻ. Hào từ còn nói rõ thêm: Lấy nước giếng, chớ đậy kín, phải nên có lòng tin người. Ý rằng, nước giếng là của chung, phải để mọi người cùng thụ hưởng, chớ ích kỷ, rất cần vị tha. Đây là thời kỳ quan lộc thành đạt, tài lộc hoạnh phát, khởi nghiệp hanh thông, kinh doanh buôn bán phát triển, lợi lạc.
Tuy nhiên, hào này còn có ý nghĩa hoạnh phát hoạnh phá, bất lợi cho việc phi nghĩa, người phi nhân, bất lợi cho người già lâm bệnh trọng và người trẻ ăn chơi đua đòi trác trụy.

4. Dự đoán theo Ma Trậ
n Tam Phương 

Năm 2013, đòi hỏi tu thân Đức Tin, Nội Lực (tự tin) mạnh và chắc chắn, để dịch biến 013 thành 513 ( đức tin âm thành đức tin dương, tĩnh thành động). Đức tin khiến xuất hiện đủ 5 số lẻ (dương) 1,3,5,7,9. Các việc hàm chứa trong 5 số lẻ này gồm số 1 ý nghĩa Sự Nghiệp/ Số 3 ý nghĩa Gia Đình/ số 5 ý nghĩa Đức Tin/ số 7 ý nghĩa Tương Lai (Tử Tức) và số 9 ý nghĩa Danh Vọng. 5 việc này vận động kết trục và tràn đầy sinh lực cát vượng.
Từ ma trận biến 513, có ma trận hiện hành (513-384) là 129. Ma trận này vận động cùng lúc hai trục 1-9-5 và 2-9-4. Sau đó vận động toàn diện ma trận. Như vậy, năm Quý Tỵ khó khăn hung xấu 4 tháng đầu năm, giai đoạn biến đức tin âm (0) thành đức tin dương (5). Bốn tháng tiếp theo (tháng 5-8) là thời vận động ma trận, hung cát song hành, thành tựu cho người có đức tin thuận lý. Bốn tháng cuối năm (tháng 9-12) là hệ quả của hung cát thời gian trước, nhưng ma trận vận động toàn diện, dự báo khuynh hướng thành tựu lợi lạc, viên mãn cho tất cả.

Kính thưa bạn đọc,

Trên đây chỉ là những tham khảo sơ lược.Cầu mong tham khảo này ích lợi cho bạn. Bạn nên dành chút thời gian lúc thư nhàn dự đoán cho mình hoặc thân bằng quyến thuộc, theo thứ tự lập trình sau:
1/ Xác lập quẻ Can Chi Quý Tỵ.
2/ Đối chứng quẻ tuổi của người cần dự đoán với quẻ năm Quý Tỵ để tìm được 5 thế hành, sinh xuất hay sinh nhập, khắc xuất hay khắc nhập, hay bình hòa. Chú ý, Chi Địa, là chủ thể, Can Thiên là khách thể.
3/ Sau khi đã xác lập được mô hình hung cát cần xem , đối chứng từng sự việc đang làm, đang toan tình, hoặc đơn thuần mong cầu vào từng thời gian phân định theo dự đoán quẻ dịch Thúy/ Phong Tỉnh mà tùy nghi biến dụng.
4/ Nên thấu hiểu ý nghĩa tu thân cát vượng của năm Quý Tỵ này là tạo thiện đức như cái giếng, để uống mãi không cạn, vơi lại đầy, đầy không tràn. Tu thân ngược nghĩa tất hung họa, thất bại.

Kính chúc bạn đọc một năm mới an khang, cát vượng. Người viết dự đoán tham khảo này cúi xin được chỉ giáo và lương thứ.


NGUYỆN

Từ NNB blog

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

BÀI THƠ TẤT NIÊN



ST:  Tết cổ truyền dân tộc đã gần k. Năm hết tết đến,  mọi người thường điểm lại những việc làm, những sự kiện của năm cũ, mong chờ năm mới những điều tốt đẹp hơn thuận lợi hơn...ST thì muốn ghi lại những cảm súc đã trải qua trong năm cũ- Năm Nhâm Thìn, để lưu giữ, để bình thản hơn khi bước vào năm mới...mời bạn bè cùng đọc  : 









Em "save" thời gian



Đón năm mới em "save" lại năm cũ
Ba trăm sáu nhăm ngày
và những đêm mất ngủ
Ba trăm sáu nhăm ngày
lộng trào bão lũ
trong lòng em và trên mảnh đất quê hương...

Năm mới sắp về em "xếp" sâu thêm
Những nếp nhăn nhọc nhằn mang tên thế hệ
Cả một đời tin yêu là thế
Bãi bể thành nương dâu*
Còn đâu? Tìm nơi đâu?
 Nỗi đau này lớn hơn mọi nỗi đau...

Đón năm mới em "save" lâu...rất lâu
Những sắc mầu cuộc sống đương đại
Vui đầy buồn đấy...đưa đẩy
 Xoay tít vòng thời gian
Vội vàng vội vàng
Mong lật đời sang trang...




Em "save" miên man... miên man
Những phút giây dấu yêu muôn vàn
Bàn tay mềm miết chặt...
Lời gió mưa dìu dặt
Gỡ rối con tim...  
Lẫn chìm trong mưa bụi
dáng đứng ai...làm tội những vần thơ

Em mải mê "save...save"
để chẳng bao giờ
mở lại
Để mãi mãi không quên

Thời gian trd rồi
Em đón chào một năm mới... bình yên

* Lời Mạc Ngôn ( trong tác phẩm "Ếch" )





Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

Sự tích ông Công ông Táo

                           



Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn.

Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai Vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.

Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền. Hai Vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu.

Túng thế hai Vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình cảnh vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ:

- Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được.

Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết có nhau. Nhưng người chồng bảo:

- Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác.

Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi.

Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ lanh lẹn và xinh xắn nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng.

Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Nhưng cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng.

Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói, vừa chết vợ. Sẵn có tình cảm với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là:

- Chồng tôi hẹn tôi trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo.

Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không tin tức cũng chẳng có một lời đồn về người chồng. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng quyết định:

- Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia đình mới. Sức của tôi và của của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời.

Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ cho một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới.

* * *

Đột nhiên sau đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: - "Thế là hết. Bởi số cả!".

Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi Vợ chồng mới cưới không còn biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám gặp mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ.

- Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi.

Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mặc dầu người chồng mới xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng.

Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không ráng chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng.

Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà.

Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to: - "Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác!". Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử.

Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật.

Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm vương hỏi tình của chàng đối với người vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ rộng rãi trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng.

Diêm vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời, vua còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.




Image


(sưu tầm)


Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Góc bè bạn: Thơ Nhã My

ST: Nhã My và bằng hữu ( trên blog ) vừa xuất bản cuốn sách thơ tựa đề KHUNG KỶ NIỆM. Bạn đã có một buổi họp báo giớt thiệu sách trang trọng, đầm ấm ( xem  nhamy.blogspot.com). Song Thu vốn thích đọc thơ bạn và học được nhiều kiến thức bích từ các bài viết giới thiệu văn chương của bn. Lần này NM cũng gửi tặng ST một cuốn sách.
ST  rất trân trọng  lao động nghệ thuật của bạn.
Và Cám ơn Nhã My rất nhiều!

Dưới đây xin đăng một số bài từ blog Nhã My để bạn đọc cũng thưởng thức!

Nhã My mặc váy đầm màu xanh,tay cầm ví

CHIỀU

Nắng nhạt ngoài khe cửa
Tàn phai theo khói sương
Xa xa mờ bóng núi
Chiều buông xuống màu buồn

Nghe hoàng hôn xa vắng
Vàng phai hơn lá khô
Mây mùa đông chưa tới
Bỏ gió buồn bơ vơ

Chiều trở về như thế
Bao nhiêu ngày đã trôi
Tóc nhuộm màu sương tuyết
Lòng chợt nhớ xa xôi

BẾN XƯA

bến xưa nước chảy về đâu
nghìn thu rớt hột qua cầu quan san
biết em là bóng ảo tàn 
biết tôi một kiếp tình mang ngỡ ngàng

gặp nhau quán trọ bàng hoàng
hai bàn tay với mùa sang ngậm ngùi...




 



TRĂNG

Đố ai vớt được trăng vàng
Trăng tan vụn vỡ mơ màng trăng trôi
Nửa bên lạc bến đê mê
Nửa khuya  chợt tỉnh
 Nửa đời  hoang liêu
Bâng khuâng muốn nói lời yêu
Bâng khuâng thẹn với
Dáng kiều
 Trăng
 Mơ…

NHÃ MY













Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

HOA PENSÉE (FĂNG-XE)






Tên em hoa gọi făng-xe
Chị thương chị gọi "Ngày Về Của Anh"
Vàng tươi trắng mát dịu thanh
Hong hao tím đỏ mong manh giáng chiều
Thoạt nhìn lòng đã liêu xiêu 
Sắc xuân e p mĩ miều dại thơ
Tình yêu hoài niệm vu vơ*
Ngẩn ngơ vơ vẩn mong chờ đến mai
Thiếu gì hoa đẹp lòng ai
Sen đỏ Đào thắm Hồng gai Cúc vàng
Ngắm em  chợt d ngỡ ngàng
Nh nhung thanh thản ngập tràn yêu thương
Trải hoa quanh quẩn ven đường
Níu chân khách lạ dặm trường lại thăm
 Bao giờ cho đến mồng năm...

(Viết vào dịp Tết năm xưa )






* Shaskespeare gọi hoa pensée là  hoa Tình yêu vu vơ




Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

Tình mẫu tử

Danh họa và sự vĩ đại của tình mẫu tử


Đứng trước những bức họa dưới đây, người ta đặt câu hỏi, những danh họa đã vẽ nên vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử, hay, chính sự vĩ đại của tình mẫu tử đã làm nên vẻ đẹp cho tranh?

William-Adolphe Bouguereau – Bức Temptation (1880)
.

Những bức tranh khắc họa tình mẫu tử

Không gian trong tranh thật đẹp, bầu không khí ấm áp bao trùm. Người mẹ và em bé đang tận hưởng niềm vui giản dị - chơi đùa, trò chuyện cùng nhau. Bức “Temptation” (Sự quyến rũ) là một điển hình của những bức tranh cổ, tuân thủ nghiêm ngặt những quy chuẩn về tỷ lệ, màu sắc và hình khối.

Pablo Picasso – Bức Motherhood (1901)
.

Những bức tranh khắc họa tình mẫu tử

Những bức tranh của Pablo Picasso đặc trưng bởi hình khối và góc cạnh. Đây là một trong những bức hiếm hoi mà Picasso có cách vẽ dịu dàng tới như vậy. Bức tranh có một cái tên giản dị, “Tình mẹ” (Motherhood). Sự giản dị thiêng liêng.

Vincent Van Gogh – Bức Portrait of the Artist's Mother (1888)
.

Những bức tranh khắc họa tình mẫu tử

Mẹ của danh họa Van Gogh chỉ mỉm cười rất nhẹ trong tranh với đôi mắt và vầng trán thể hiện điều gì như đang lo lắng. Khi tranh được vẽ xong, chính mẹ của danh họa cũng cảm thấy lo lắng, bà không hiểu lúc đó mình đang suy nghĩ gì hay chính cậu con trai của bà đang lo lắng trong lúc vẽ.


Diego Rivera – Bức Sleeping Family (1932)
.

Những bức tranh khắc họa tình mẫu tử
Những nghệ sĩ theo trường phái hiện thực luôn "thách thức" người xem. Bức tranh sử dụng phương pháp in thạch bản. Tranh khắc họa người mẹ tội nghiệp, chỉ có thể cho con mình một nơi “trú ẩn”, nương náu trong vòng tay mẹ, lấy thân mẹ làm gối êm. Trong bức tranh này, không có những gì sa hoa, lấp lánh, không có những cao sang, choáng ngợp, chỉ có một giá trị giản dị nhưng vĩnh hằng: vòng tay mẹ. Đối với con người, đó là tất cả.


Frederic Leighton – Bức Mother and Child (With Cherries) (1865)

.

Những bức tranh khắc họa tình mẫu tử

Leighton đã mang lại cho chúng ta hình ảnh về một người mẹ thuộc thế giới thượng lưu, khung cảnh trong tranh thật sang trọng, quý phái. Hai mẹ con đang cùng nhau ăn quả anh đào. Ở trong khung cảnh ấy, người ta cảm nhận được sự yêu thương, trìu mến vô bờ.


Paula Modersohn-Becker – Bức New Mother (1907)
.

Những bức tranh khắc họa tình mẫu tử

Trong cuộc đời mình, họa sĩ Modersohn-Becker luôn khao khát được làm mẹ, tuy vậy, số phận cô không may mắn khi cuộc hôn nhân của Paula không hạnh phúc, dù vậy cô vẫn có mang. Số phận thật trớ trêu khi nữ họa sĩ vừa sinh con được một thời gian ngắn thì qua đời. Bức tranh được vẽ ngay trước khi Paula sinh nở. Tác phẩm này được coi như “chúc thư” nghệ thuật của Paula: Mỗi người mẹ trên thế giới này khi sinh con, họ không chỉ mang đến cho nhân loại thêm một thành viên nữa, mà còn mang lại niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.

Mary Cassatt – Bức The Child's Bath (1893)
.

Những bức tranh khắc họa tình mẫu tử

Nữ họa sĩ Mary Cassatt rất thích chủ đề tình mẫu tử. Trong những bức tranh của cô, ta luôn cảm nhận được sự dịu dàng của người mẹ cũng như những suy tư, nỗi niềm, sự quan tâm của người phụ nữ dành cho gia đình, con cái. Nhân vật của cô như đang sống, đang kể chuyện. 


Pieter de Hooch – Bức Interior with Mother Delousing her Child's Hair (A Mother's Duty) (1660)
.

Bức tranh cho ta những phút giây lặng yên để cảm nhận.

Bức tranh này cho ta những phút giây lặng yên để cảm nhận.

Berthe Morisot – Bức The Cradle (1872)
.

Bức tranh cho ta những phút giây lặng yên để cảm nhận.

Trong tranh của Morisot, tất cả những đồ nội thất và phục trang đều rất thời thượng so với thời bấy giờ. Tranh của cô rất được phụ nữ đương thời yêu thích bởi những chủ đề thân quen trong cuộc sống hàng ngày của họ. Tình mẫu tử ở bất kỳ đâu, với bất kỳ ai, ở trong khung cảnh nào, cũng luôn gần gũi, thân thiết và ấm áp.

Claude Monet – Bức Field of Poppies (1873)
.

Bức tranh cho ta những phút giây lặng yên để cảm nhận.

Trong tranh, hai mẹ con đang cùng nhau dạo chơi trên cánh đồng hoa, khung cảnh tràn ngập ánh nắng mặt trời với những gam màu tươi tắn khiến người xem như được truyền cảm hứng từ niềm vui của hai mẹ con.

Vincent Van Gogh – Bức Pieta (1889)
.

Bức tranh cho ta những phút giây lặng yên để cảm nhận.

Hình ảnh Đức Mẹ ôm Chúa Giê-xu trong lòng sau khi Chúa được gỡ xuống từ cây thập tự đã truyền cảm hứng cho rất nhiều nghề sĩ, từ điêu khắc, hội họa cho đến điện ảnh. Trong hình là nỗi đau xót của người mẹ khi nhìn thấy con bị đóng đinh trên cây thập tự, giờ được gỡ xuống để trả lại cho bà.



Pierre-Auguste Renoir – Bức Camille Monet and her Son Jean in the Garden at Argenteuil (1874)
.

Bức tranh cho ta những phút giây lặng yên để cảm nhận.

Tranh của Renoir thường xoay quanh vẻ đẹp của người phụ nữ, ông khắc họa vẻ đẹp của họ trong tất cả những giai đoạn của cuộc đời, từ khi còn là thiếu nữ cho tới khi đã làm mẹ.

Gustav Klimt – Bức Hope (1908)
.

Bức tranh cho ta những phút giây lặng yên để cảm nhận.

Tình mẫu tử bắt đầu tồn tại không phải từ khi đứa trẻ chào đời mà nó hình thành từ khi người mẹ biết mình có thai. Trong tranh, họa sĩ Gustav Klimt đã khắc họa “Hy vọng” của người phụ nữ, đó chính là đứa con. Tranh có sử dụng một lượng vàng ròng để khảm lên những khối màu vàng, đó là một đặc trưng để nhận biết tranh của vị họa sĩ “ám ảnh bởi vàng”. 
 
Pi Uy/Theo Art History
Copy từ  BNN blog